Lịch sử Mì_sợi

Bức tranh của Jan Vermeer van Utrecht về một người đàn ông đang ăn mì theo hình thức bốc bằng tay (Bảo tàng Quốc gia, Warsaw)

Nguồn gốc của mì là từ Trung Quốc, và ghi chép sớm nhất về mì được tìm thấy trong một cuốn sách có niên đại từ thời Đông Hán (25 - 220 CE). Mì thường được làm từ bột mì. Nó trở thành thực phẩm chính cho người dân thời nhà Hán (206 BCE - 220 CE).

Bằng chứng lâu đời nhất về việc tiêu thụ mì là từ 4.000 năm trước tại Trung Quốc. Năm 2005, một nhóm các nhà khảo cổ báo cáo đã tìm thấy một chiếc bát bằng đất nung chứa mì 4000 năm tuổi tại khu khảo cổ Lajia. Những loại mì này được cho là giống với lamian, một loại mì Trung Quốc. Phân tích các phytolith trấu và các hạt tinh bột có trong trầm tích liên quan đến mì, chúng được xác định là kê thuộc về Panicum miliaceum và Setaria italica, mặc dù điều này còn bị tranh cãi. Có giả thiết cho rằng mỳ có nguồn gốc ở Trung Đông năm 5000 trước Công Nguyên. Bột mỳ được chế biến từ lúa mỳ. Theo nghiên cứu, lúa mỳ được trồng từ năm 7000 trước Công Nguyên ở vùng Lưỡng Hà và đã được những người di cư mang đến xứ Tân Cương, Trung Quốc.Nguồn gốc của mỳ xuất phát từ những người dân du mục. Những người du mục ở xứ Tân Cương, Trung Quốc đã chế biến bột mỳ thành những chiếc bánh nướng. Trong quãng thời gian này, những người phụ nữ ở vùng này thay vì nhào bột mỳ đem nướng thành bánh, họ đã xắt mỏng thành những sợi mảnh. Và như thế món mỳ đầu tiên của nhân loại ra đời.

Theo báo cáo của các nhà khảo cổ, một bát mỳ khoảng 4000 năm tuổi đã được khai quật ở Trung Quốc và những sợi mỳ vàng, mỏng được bảo quản được tìm thấy bên trong một chiếc tô kín úp ngược tại vùng Tây Bắc - Trung Quốc. Chiếc bát này đã được chôn dưới ba mét trầm tích. Điều này là những minh chứng cho việc dường như món ăn rất phổ biến tại Ý này lại có nguồn gốc từ Châu Á.

Tài liệu được ghi chép đầu tiên về mì sợi là từ thời nhà Đông Hán giữa năm 25-250 của CN. Tháng 10 năm 2005, loại mì cổ nhất chưa được phát hiện đã được người ta tìm thấy ở di chỉ Lạt Gia (喇家) (văn hóa Tề Gia (齊家)) dọc theo sông Hoàng Hà ở tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc. Loại mì có 4000 năm tuổi này dường như đã được làm từ hạt kê đuôi cáobột gạo tắc.[4]

Vào thế kỷ 2 TCN, Trương Khiên nhận lệnh từ Hán Vũ Đế đi về phía Tây tìm người Nguyệt Chi nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đã tìm được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Trên đường về ông cùng tùy tùng đã mang theo nhiều sản vật mà triều đình rất quan tâm. Nhờ đó những tuyến đường nhỏ trước đây đã được kết nối lại với nhau, nhiều tuyến mới được khai phá và an toàn hơn do được sự bảo vệ của triều đình. Tuyến đường mà Trương Khiên đã khai phá được người đời sau gọi là Con đường tơ lụa.Theo con đường này, người Hán đã đến Tân Cương và phát triển giao thương đến Châu Âu. Món mỳ sợi dần dần lan tới khắp Trung Quốc. Sử sách Trung Hoa đời Hán đã ghi nhận sự có mặt của sợi mỳ. Kĩ thuật làm mỳ sợi từ đó lan dần sang các nước Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đông Nam Á.

Đông Á

Mì ở Nhật Bản (udon) được chuyển đổi từ một công thức của Trung Quốc bởi một nhà sư Phật giáo vào đầu thế kỷ thứ 9. Mì reshteh đã được người dân Ba Tư ăn vào thế kỷ 13. Đổi mới tiếp tục, ví dụ, mì làm từ kiều mạch (naengmyeon) đã được phát triển trong triều đại Joseon của Hàn Quốc (1392 mật1897). Mì ramen, dựa trên mì Trung Quốc, đã trở nên phổ biến ở Nhật Bản vào năm 1900. Trải qua rất nhiều thời gian, cùng với sự giao lưu văn hóa giữa nhiều quốc gia, món mỳ sợi đã dần dần xuất hiện và đi vào đời sống của người dân. Hiện nay, khoảng hơn 40% lượng bột mỳ được tiêu thụ ở Châu Á là dùng cho việc sản xuất mỳ. Mỳ càng ngày càng trở nên phổ biến ở khắp nơi.

Châu Âu

Trải qua rất nhiều thời gian, cùng với sự giao lưu văn hóa giữa nhiều quốc gia, món mỳ sợi đã dần dần xuất hiện và đi vào đời sống của người dân. Hiện nay, khoảng hơn 40% lượng bột mỳ được tiêu thụ ở Châu Á là dùng cho việc sản xuất mỳ. Mỳ càng ngày càng trở nên phổ biến ở khắp nơi.

Nhiều thông tin cho rằng, vào cuối thế kỉ 13, Marco Polo đã đến Trung Quốc và mang mỳ sợi về Ý sau chuyến đi tới phương Đông kéo dài 25 năm của mình. Tuy nhiên, nhiều người khác lại phủ nhận điều này, và họ đã tìm thấy chứng cứ về việc chính những người lính Ả Rập đã đem món mỳ tới đảo Silicy và lan ra khắp nước Ý và các quốc gia châu Âu khác.Vào thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên, Horace đã viết về những miếng bột chiên được gọi là lagana. Tuy nhiên, phương pháp nấu các tấm bột này, lagana, không tương ứng với định nghĩa hiện tại của một sản phẩm mì ống tươi hoặc khô, chỉ có các thành phần cơ bản tương tự và có lẽ là hình dạng. Vào thế kỷ thứ 2, bác sĩ Hy Lạp Galen đã đề cập đến nó, đề cập đến tất cả các hỗn hợp đồng nhất từ ​​bột và nước. Các Latinh hóa itrium được sử dụng như một tham chiếu đến một loại bột luộc. [11] Các Jerusalem Talmudghi lại rằng nó rất phổ biến ở Israel từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 5. Mì Ả Rập thích nghi cho các chuyến đi dài trong thế kỷ thứ năm, bản ghi đầu tiên của mì ống khô. Bác sĩ Ả Rập Isho bar thế kỷ thứ chín Ali định nghĩa itriyya, nhận thức tiếng Ả Rập của từ Hy Lạp, là hình dạng giống như chuỗi được làm bằng semolina và sấy khô trước khi nấu. Muhammad al-Idrisi đã viết vào năm 1154 rằng itriyya được sản xuất và xuất khẩu từ Norman Sicily. ItriyaNhững người nói tiếng Aramaic cũng được biết đến dưới thời Ba Tư và trong thời kỳ Hồi giáo đã đề cập đến một món phở nhỏ được chế biến bằng cách xoắn các miếng bột nhào thành hình.

Thông tin cụ thể đầu tiên về các sản phẩm mì ống ở Ý có từ thế kỷ 13 hoặc 14. [15] Pasta đã có nhiều hình dạng khác nhau, thường dựa trên các chuyên ngành trong khu vực. Kể từ ít nhất thế kỷ 20, mì ống đã trở thành một mặt hàng chủ lực ở Bắc Mỹ và các nơi khác.

Trong khu vực sẽ trở thành Đức, người ta đã tìm thấy văn bản đề cập đến Spätzle trong các tài liệu có từ năm 1725, mặc dù các minh họa thời trung cổ được cho là đặt món mì này vào một ngày thậm chí sớm hơn.

Zacierki là một loại mì được tìm thấy trong ẩm thực Ba Lan.Đó là một phần của khẩu phần được phân phối trong Łódź Ghetto ở Ba Lan do Đức chiếm đóng. (Out of the "khu ổ chuột lớn", Łódź đã ảnh hưởng nhiều nhất bởi nạn đói, nạn đói và tử vong suy dinh dưỡng liên quan đến.) Cuốn nhật ký của một cô gái trẻ từ Łódź kể lại một cuộc chiến cô đã có với cha cô qua một thìa zacierki lấy từ gia đình cung cấp ít ỏi 200 gram mỗi tuần.

Khi khoa học kĩ thuật còn chưa phát triển, việc chế biến mỳ đòi hỏi sự chế biến rất công phu và cẩn thận. Do đó, mỳ sợi đã từng là những món ăn chỉ có mặt trong những dịp trọng đại của người Châu Á, hay chỉ dành cho giới quý tộc Ý. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, công nghiệp chế biến mỳ sợi càng ngày càng phát triển với nhiều hình dạng, kích cỡ khác nhau. Mỳ cũng trở thành món ăn nhanh đầu tiên trên thế giới và rất được ưa chuộng bởi tính tiện dụng của nó.